(KTSG Online) – Tính đến tháng 12-2022, Việt Nam có 407 khu công nghiệp nhưng theo đánh giá chung của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì hiệu quả sử dụng đất ở khu công nghiệp chưa cao.
- Việt Nam – Singapore khởi công thêm 3 khu công nghiệp VSIP
- Đề xuất đầu tư thêm khu công nghiệp tại Cần Thơ có quy mô 600-800 héc-ta
Đây là nội dung được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề cập trong tờ trình Đề nghị xây dựng Luật khu công nghiệp, khu kinh tế gửi Chính phủ.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến 12-2022, Việt Nam có 407 khu công nghiệp, trong đó có 4 khu chế xuất. Tổng diện tích tự nhiên là gần 130.000 ha, trong đó, tổng diện tích đất công nghiệp là hơn 86.000 ha, chiếm khoảng 67%. Trong số 407 khu công nghiệp này có 292 khu công nghiệp đi vào hoạt động với gần 93.000 ha đất tự nhiên, có 115 khu công nghiệp đang giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Có 26 khu kinh tế cửa khẩu được thành lập tại 21 tỉnh, thành với tổng diện tích là 766.000 ha. Có 18 khu kinh tế ven biển được thành lập tại 17 tỉnh, thành trong cả nước.
Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, sau hơn 30 năm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế đã giúp Việt Nam thu hút được vốn đầu tư lớn, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi không gian phát triển…
Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất ở khu công nghiệp, khu kinh tế chưa cao. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này là do khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chính là thể chế và pháp luật có liên quan đến khu công nghiệp, khu kinh tế chưa được hoàn thiện, chưa có sự sáng tạo, đột phá để thích ứng với yêu cầu phát triển, tạo hướng đi mới cho phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế.
Cùng với đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng do khung pháp lý điều chỉnh hoạt động khu công nghiệp, khu kinh tế chưa có sự thay đổi căn bản, mới dừng lại ở nghị định, trong khi khu công nghiệp, khu kinh tế liên quan đến nhiều hoạt động khác nhau như quy hoạch, đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, xây dựng, môi trường, nhà ở, lao động… Điều này gây không ít khó khăn trong quá trình thực thi chính sách về khu công nghiệp, khu kinh tế, nhất là phát triển mô hình mới, thường xảy ra xung đột, thiếu thống nhất khi quy định của pháp luật chuyên ngành thường được sửa đổi, bổ sung hay bị thay thế…
Hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư của Việt Nam nói chung và của khu công nghiệp, khu kinh tế nói riêng thiếu hiệu quả để định hướng dòng đầu tư. Hiện chính sách ưu đãi đầu tư đối với khu công nghiệp, khu kinh tế áp dụng chung trên địa bàn cả nước, chưa tính đến một số yếu tố đặc thù về điều kiện phát triển của từng khu kinh tế, chưa phân biệt giữa lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, thiếu chính sách khuyến khích việc hợp tác, liên kết giữa các dự án trong khu công nghiệp, khu kinh tế. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc thu hút nhà đầu tư khi thành lập sau và ở địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn hơn.
Cũng trong tờ trình này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu ra 4 điểm lý giải vì sao cần có Luật khu công nghiệp, khu kinh tế, là nhằm tạo khung pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất về khu công nghiệp, khu kinh tế…