Thời gian qua, việc thu hút FDI trong lĩnh vực công nghệ cao và thúc đẩy chuyển giao công nghệ tại Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực. Việt Nam bước đầu đón dòng vốn đầu tư mới trong lĩnh vực công nghệ cao như Intel, Samsung… Việc các tập đoàn công nghệ toàn cầu đang đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực sản xuất công nghệ tại Việt Nam đã khiến thị trường nội địa được mở rộng nhanh chóng. Đó cũng là nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp trong nước cải thiện năng suất, đổi mới công nghệ; thông qua áp lực cạnh tranh, áp dụng các mô hình sản xuất mới của doanh nghiệp FDI để phát triển và thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa. Các doanh nghiệp trong nước đang từng bước được tham gia vào chuỗi sản xuất của các doanh nghiệp FDI. Đơn cử như số lượng nhà cung cấp cấp 1 và cấp 2 của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu Samsung tăng gấp 10 lần, từ 25 doanh nghiệp năm 2014 lên 257 doanh nghiệp vào cuối năm 2022.
Số liệu của Bộ KH-CN cho biết, từ 1-7-2018 đến hết năm 2022, cả nước có trên 400 hợp đồng chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI, tập trung trong các lĩnh vực sản xuất điện tử, viễn thông, ô tô, xe máy, dược phẩm, thiết bị y tế... Tuy nhiên, việc cập nhật công nghệ, tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu phát triển còn hạn chế; mục tiêu về chuyển giao công nghệ chưa đạt được như mong đợi; sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn tới; liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước chưa chặt chẽ...
Là nước đi sau so với nhiều quốc gia, Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những cơ hội chuyển đổi nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ KH-CN và đổi mới sáng tạo. KH-CN và đổi mới sáng tạo đã được xác định là một trong các đột phá chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay. Để thực hiện được điều đó, ngoài những yếu tố nội sinh, vấn đề kêu gọi FDI vào lĩnh vực công nghệ cao, đi kèm đó là yêu cầu chuyển giao công nghệ có vai trò hết sức quan trọng.
Việt Nam cần phải sớm chủ động rà soát các chính sách ưu đãi phù hợp để thu hút FDI. Cần có chiến lược phát triển công nghiệp phù hợp từng giai đoạn, trong đó có quy định liên quan đến phát triển các ngành công nghệ cao, gắn với chuyển giao công nghệ và các ưu đãi; tạo được môi trường đầu tư kinh doanh nói chung theo hướng thông thoáng, thuận lợi, tiệm cận thông lệ quốc tế. Đồng thời, hoàn thiện các luật chuyên ngành liên quan trực tiếp đến công nghệ cao, chuyển giao công nghệ. Sửa đổi cơ chế chính sách để khuyến khích doanh nghiệp thành lập các trung tâm nghiên cứu và phát triển, có cơ chế về ưu đãi đất, thuế, tiêu chí về nguồn nhân lực, dự án đầu tư...
Cùng với đó là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cường tính liên kết giữa các viện - trường - doanh nghiệp; rà soát cơ chế chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất, nghiên cứu, tiếp thu, chuyển giao công nghệ. Từ đó, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp nhận chuyển giao công nghệ và thực sự làm chủ được công nghệ cao, có chỗ đứng trong thị trường và trở thành nhà cung cấp của các doanh nghiệp công nghệ cao nước ngoài, cũng như tự phát triển thương hiệu, sản phẩm Make in Vietnam. Khi có một nền KH-CN phát triển, làm chủ được các công nghệ cao, thì con đường phát triển nhanh, bền vững, tự chủ của Việt Nam mới có thể thông suốt, sớm đạt được các mục tiêu đề ra.
TRẦN LƯU